A. CÚNG TỔ TIÊN
Đốt nén hương thơm, chí tâm bái thỉnh:
Trời đẻ, đất nuôi, đức che chở lấy gì lường kịp. Nước nguồn, cây gốc, công bón vun biết sánh chi tầy. Đây nền nhân, đây nhà nghĩa, do Tổ tiên gây dựng mà nên. Nọ lá ngọc, nọ cành vàng, bởi công đức chất chồng mới có. Hiểu đạo nghĩa mới thành gần gũi, rõ nguồn cơn sẽ chẳng cách xa. Dù âm dương, u hiển khác nhau, nhưng Phật pháp đề huề thật dễ.
Duyên nay: Tại nước Việt nam,_____, chúng con là _____nhân ngày (tuần)_____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: _____ chân linh, cùng chư vị Tổ tiên, nội ngoại, cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, bác, chú, cô, thím, anh, chị, em, xa gần hết thảy.
Xin nguyện chư hương linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
Lại đốt hương thơm, đôi phen triệu thỉnh:
Công Tổ tiên non cao biển rộng, phận cháu con phải cúng, phải thờ. Nén hương nghi ngút khói đưa, chư linh phảng phất như vừa đâu đây. Xin triệu thỉnh về ngay thụ hưởng, chút tâm thành nhất hướng kính dâng. Trượng thừa Tam bảo gia ân, hộ trì tiếp dẫn dự phần trai nghi.
Duyên nay: Tại nước Việt nam,_____, chúng con là _____ nhân ngày (tuần)____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: _____chân linh, cùng chư vị Tổ tiên, nội ngoại, cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, bác, chú, cô, thím, anh, chị, em, xa gần hết thảy.
Xin nguyện chư linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
B. CÚNG CHA MẸ
Đốt nén hương thơm, chí tâm bái thỉnh:
Trời cao vòi vọi, đất rộng thênh thang. Từ bé rồi đến lúc lớn khôn, công cha dưỡng như trời cao, non lớn. Chiếm lấy ướt để nhường khô ráo, công mẹ nuôi bằng đất rộng, sông sâu. Lòng chỉ lo báo đáp nghĩa sanh thành, ý những dắp sớm hôm thường định tỉnh. Tuy âm dương xa cách khôn lường, nhưng Phật pháp gia trì tất ứng.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, ______, chúng con là _____ nhân ngày (tuần)____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: hiển tỷ (khảo) ____ chân linh.
Xin nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
Lại đốt hương thơm, đôi phen triệu thỉnh:
Nhớ công đức cha sanh mẹ dưỡng, khác nào như bể rộng, sông sâu. Nền nhân, cội phúc là đâu? Phận con cháu phải nghĩ câu báo đền. Nay thời tiết nhân duyên vừa đến, trước linh sàng thân quyến tề qui, tụng kinh niệm Phật gia trì, nghe câu triệu thỉnh, hồn về phó trai.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, _____, chúng con là _____nhân ngày (tuần)____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: hiển khảo (tỷ) _____ chân linh.
Xin nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
C. CHỒNG, VỢ CÚNG CHO NHAU:
Đốt nén tâm hương, nhất tâm triệu thỉnh:
Tình như loan phụng, nghĩa tựa sắc cầm; bao tháng năm khắng khít keo sơn, nay bỗng chốc phân chia đôi ngã. Đau xót nhẽ kẻ đi người ở, buồn thương thay đấy khuất đây còn, báo đáp nhau chút nghĩa sắt son, cầu Phật độ cho hồn sang tịnh cảnh.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, _____, chúng con là _____ nhân ngày (tuần) của _____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: _____ chân linh.
Xin nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
Lại đốt hương thơm, đôi phen triệu thỉnh:
Chim loan phụng từ xưa hòa hợp, đàn sắt cầm bỗng đứt dây tơ. Âm dương đôi ngả cách xa, bóng kia hình nọ bay giờ tìm đâu? Lòng thành kính ai cầu chư Phật, phóng từ quang cứu vớt chân linh, về nơi An dưỡng vô sinh, hưởng ngôi bất thoái vô minh sạch làu.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, _____, chúng con là _____ nhân ngày (tuần) của ______, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: _____ chân linh.
Xin nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
D. CHA MẸ CÚNG CHO CON CHÁU:
Đốt nén hương thơm chí tâm triệu thỉnh:
Ân thâm nghĩa trọng, con nỡ sao rứt bỏ cho đành, gan héo ruột rầu, cha mẹ muốn quên đi chẳng được. Hẳn duyên nghiệp không từ kiếp trước, nên giờ đây con cướp cộng lao, để mẹ cha sống cảnh quạnh hiu, nhìn ngó lại con đã theo tuyền lộ. Nay triệu thỉnh hồn theo Phật độ, về đây cùng hưởng thụ chút dư ân, thôi không duyên không nợ cũng tình thâm, con phù hộ cho hai thân an lạc.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, _____, chúng con là _____ nhân ngày (tuần) của _____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: _____ chân linh.
Cầu nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
Lại đốt hương thơm, đôi phen triệu thỉnh:
Mối tình phụ (mẫu) tử, chút nghĩa cháu con, nuôi bao năm mong được lớn khôn, nay bỗng chốc lá xanh sớm rụng, đau xót nhẽ than hồn cô quạnh, ngậm ngùi thay ngày tháng đìu hiu, nghĩ đến con thương nhớ trăm chiều, cầu Phật độ cho hồn siêu cõi lạc.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, ____, chúng con là ____ nhân ngày (tuần) của ____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh: ____ chân linh.
Cầu nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
E. CÚNG HỘI VIÊN QUÁ CỐ:
Đốt nén hương thơm, chí tâm bái thỉnh:
Tông thân chín họ, quyến thuộc bốn ân. Hàng hội viên nam nữ đôi bên, hồn phảng phất mau về cùng phối hưởng. Hai thời tiết hạ, xuân (thu, đông) hợp cúng, phách phiêu diêu kíp đến tùy trai, nghe tiếng chuông kiền thỉnh tới mâm ngồi, triệu linh phách mau mau cùng thụ hưởng.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, ______, chúng tôi là ______ nhân ngày (tuần) của_____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh đạo hữu: _____ chân linh và chư nam nữ hội viên quá vãng.
Cầu nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
Lại đốt hương thơm, đôi phen bái thỉnh:
Việc báo đáp nên thờ nên cúng, nghĩa tứ ân phải trọng phải tôn, thành tâm triệu thỉnh chư hồn, hội viên nam nữ nghe chuông thì về. Cùng thụ hưởng trai nghi tiến cúng, cùng dự nghe phúng tụng kinh văn, dù cho trệ phách, cô thân, lời vàng thoảng đến dự phần siêu sinh.
Duyên nay: Tại nước Việt nam, ______, chúng con là _____ nhân ngày (tuần) của _____, sửa soạn trai nghi, thành tâm kiền thỉnh đạo hữu: _____ chân linh.
Cầu nguyện chân linh, trượng phép mầu tựa nương chư Phật, nhờ chân ngôn bí mật tối linh, về đây thọ hưởng đan thành, nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.
(Sau khi dứt mỗi phần A hoặc B, C, D, E, thì đọc tiếp Nam mô An Bảo Tọa Bồ tát)
Nam mô An Bảo Tọa Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
An tọa đã xong, kinh có chân ngôn Sái tịnh, nhất tâm trì tụng:
Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha: Án, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha (3 lần)
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
Trai nghi đã sắp, nghi ngút hương bay, kinh có chân ngôn Khai yết hầu, nhất tâm trì tụng:
Án, bộ bộ đế, rị già đa, rị đát đa, nga đa da. (3 lần)
Án, tam muội da tát đỏa phạm. (3 lần)
Giờ đây, chân linh nhờ có chân ngôn Tam muội da giới, yết hầu tự khai, không bị nghẹn ngào, thụ hưởng ngon lành các món pháp thực. Hiện tiền tín chủ _____ kính dâng các món trai nghi thanh tịnh. Kinh có chân ngôn Biến thực, nhất tâm trì tụng:
Biến thực chân ngôn:
Nam mô tát phạ đát tha nga đá, phạ rô chỉ đế, án, tam bạt ra tam bạt ra hồng.
(3 lần)
Cam lộ thủy chân ngôn:
Nam mô tô rô ba da, đát tha nga đa da, đát điệt tha: án, tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (3 lần)
Nhất tự thủy luân chân ngôn:
Án, noan noan noan noan noan. (3 lần)
Nhũ hải chân ngôn:
Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm, án noan. (3 Lần)
Phổ cúng dường chân ngôn:
Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
Đến đây chú thực đã xong, nay có cấp phó điệp văn, kính nên tuyên đọc:
Thiết bày nghi cúng tổ tiên pháp đàn, cấp phó chân linh.
Hôm nay, tại nước Việt nam, _____, hiện tiền trai chủ ____, đốt nén hương lòng, sửa soạn trai nghi, thành tâm hiến cúng chân linh ____.
Thiết nghĩ chân linh:
Sanh trong trần thế, dễ hay đâu tội phước mà lường.
Chết xuống âm cung, thật khó biết đắm chìm để cứu.
Tuân lời Phật dạy: Muốn cho siêu thoát,phải nhờ phước lực mới nên. Vì vậy, hôm nay, nhân tiết ____, gặp tuần _____, kiền cầu tăng chúng (thiện hữu) thiết lập pháp đàn, sửa soạn trai diên, hành khoa chú thực, niệm Phật Di Đà, đọc câu Sái tịnh, tụng chú Vãng sanh.
Nay theo đúng phép, cấp bản Điệp văn để chân linh ____, giữ lấy làm tin.
Chúc cho chân linh:
Nhờ diệu pháp thẳng về nơi tịnh độ, bên đài sen mặc sức tiêu dao.
Nương Điệp văn mau thoát chốn u đồ, trong ao báu thỏa lòng tắm gội.
Hết điều sanh diệt, không có lại qua.
Điệp văn này cấp phó cho chân linh: , giữ lấy làm bằng.
Lập tại ____, năm ___ tháng ___ ngày ___
Đương đàn pháp sự, tỳ kheo (tỳ kheo ni/ đạo hữu) ……., phụng hành.
Đến đây, văn điệp tuyên đọc đã xong, đối trước trai đàn, lửa trần thiêu hóa.
(Tuyên điệp xong, tụng Bát nhã Tâm kinh, thiêu hóa điệp văn, hoặc có thể tụng thêm kinh Di Đà, vừa dứt kinh, rồi bạch:)
Trộm nghĩ, người sinh trong cõi thế, cũng như cánh bướm bông hoa. Vận hạn tới nơi, nào khác móc chiều sương sớm. Đức Phật mình cao trượng sáu cũng còn tịch diệt chốn song lâm. Lão quân thuốc luyện chín viên, trót hết hồn quy nơi thệ thủy. Thương thay! Bành tổ sống tám trăm năm. Xót vậy! Nhan hồi tuổi hơn ba chục. Trẻ già dẫu khác, sống chết hơn chi. Lại như: Tam hoàng tuổi thọ, chẳng khỏi luân hồi, Ngũ đế sống lâu, chưa là bất tử. Thần nông thuốc giỏi, chữa sao cho lại số trời; Biển thước tài hay, khôn cứu người về cõi đất. Tần thủy hoàng dời non, lấp biển, rồi ra mệnh táng đất Sa khâu; Sở bá vương sức lực bạt sơn, cũng đến phải Ô giang tự vận. Tề cảnh công nuôi nghìn ngự tứ, cũng thành công cốc hơn chi; Hán Hàn Tín mười việc công lao, há có được còn mãi mãi. Mạnh thường quân ba nghìn kiếm khách, cũng chết dần mòn; Khổng phu tử trò giỏi bảy hai, nay ai sống nữa. Ngao ngán nhẽ! Chu, Tần, Hán, Ngụy, chốn lầu đài nay hóa hoang vu. Tiếc thương thay! Tấn, Tống, Tề, Lương, nơi thành quách cũng là nơi quạnh quẽ.
Nào những bậc tiền hiền, cổ thánh: Ai đã từng chất ngọc, chứa vàng; ai đã từng lưng đai, áo tía; ai đã từng đoạt lợi tranh danh; ai đã từng khoe văn, diễu võ. Hỡi ơi! Đời người ví tựa nước trôi xuôi, trí dậy anh hùng ở khắp nơi, hơi thở lúc còn lừng lẫy lắm, vô thường hạn đến việc buông trôi. Vậy nên có bài kệ:
Tất cả núi non đều tan vỡ hết
Tất cả bể sông đều sẽ khô kiệt
Tất cả cỏ cây đều phải tàn lụi
Tất cả muôn vật đều sẽ bại hoại.
Mọi sự ân ái rồi sẽ ly biệt
Mọi sự phiền não cũng dần tan hết
Tình thân gia đình một sớm đoạn tuyệt
Duy có pháp thân thường trụ chẳng diệt.
Than hỡi! Đời người trăm tuổi cũng như việc gẩy móng tay, có khác nào chiếc bách trôi suôi, hay tương tự trời tây thỏ lặn. Đập hòn đá mong tìm ánh lửa, bóng ngựa câu bên sổ thoáng qua, ngọn đèn lu trước trận phong ba, hạt móc sớm treo trên ngọn cỏ. Thuyền đã tới bờ, cây vừa độ mục, chớp mắt thôi chỉ thấy sáng lòe, sao tình nghĩa vẫn còn vướng vít, mà ý hoài rối rắm tơi bời. Lưới trần gian khin khít muôn trùng, trí vẫn để trong vòng lăn lộn. Cảnh ái thằng nút thắt nghìn khoen, tình vẫn hướng vào nơi trói buộc. Núi mạn chất chồng gò đống, chỗ chỗ trưng bày, lòng tham sâu thẳm biển khơi, giòng giòng cuồn cuộn. Chỉ còn cách sớm hôm niệm Phật, mới mong về cõi lạc yên vui.
Nay các chân linh đã nghe câu kệ vô sinh để khỏi phải gây nhân hữu lậu, xin các chân linh hãy nghe tôi niệm bài kệ hàng ma, trao lại chân linh làm bùa hộ mệnh:
Lửa mồi ánh chớp có gì đâu
Ân ái sao còn quấn quít nhau
Một túi da khô đầy bảo vật
Tấm thân vàng kệch rượu cơm bầu
Luân hồi, sống chết ai là khỏi
Tờ lệnh Diêm la kíp tới mau
Phúc, tội tóc tơ bày rõ hết
Phân minh sổ sách trước như sau
Cột đồng, giường sắt trông ghê khiếp
Khóc thét, kêu gào tránh được đâu
Hối lại tu hành e đã muội
Đầu thai làm kiếp ngựa hay trâu
Nghiệp duyên chồn chất quên đời trước
Nhờ Phật rồi may mới thoát cầu
Một điểm chân như ai nấy sẵn
Thoát vòng sanh tử, niệm lên mau.
Nay các chân linh đã nghe bài kệ vô sinh rồi, kíp kíp theo tôi cùng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” và bốn Thánh hiệu để được vãng sinh về nơi cực lạc.
Quạ bay, thỏ chạy chóng như thoi
Than ôi đời ta được mấy hồi
Chỉ cõi Tây phương nơi lạc cảnh
Quay đầu ta kíp niệm đi thôi.
Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần)
Dù ai nhà ngọc với kho tàng
Cảnh đến vô thường khó nỗi mang
Chỉ cõi Tây phương nơi lạc cảnh
Quán Âm bồ tát độ cho sang.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (10 lần)
Sống trên bảy chục mấy ai đâu
Trăm tuổi xem như bóng ngựa câu
Chỉ cõi Tây phương nơi lạc cảnh
Thế Chí bồ tát độ sang mau.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (10 lần)
Dơ tay cất bước tội ngang mày
Địa ngục đao sơn cửa rộng thay
Chỉ cõi Tây phương nơi lạc cảnh
Cầu xin Địa Tạng độ qua ngay.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (10 lần)
Hàm đan giấc mộng có hay chi
Cuộc thế lâu la cái nỗi gì
Chỉ có Tây phương nơi lạc cảnh
Cầu xin Thanh Tịnh độ cho về.
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (10 lần)
Nguyện vong chóng sinh sang tịnh độ
Ngôi cửu liên là chỗ náu nương
Vô sinh, sen nở ngát hương
Chư tôn bồ tát bên đường tiếp nghinh.
Chốn ao báu muôn sen đua vẻ
Phật Di Đà, Thế Chí, Quán Âm,
Tiếp hồn lên cõi lạc âm
Phát lời thệ nguyện dự phần tiêu dao.
Hết thảy pháp hữu vi
Như giấc mộng, như bọt
Như sương bay, ánh chớp,
Hãy quán tưởng như vậy.
Thấy muôn hành vô thường
Đó là pháp sanh diệt
Nếu sanh diệt có hết
Tịch diệt là cực lạc.
Nay các chân linh _____, chân tâm sáng tỏ, dục vọng tan không. Chúc nguyện chân linh: Qua khỏi cảnh nhân gian sinh tử, kíp tới nơi không hải Như lai. Đức Quán Âm nhậm tình bầu bạn, ngài Thế Chí niệm nghĩa trúc mai, ao bát đức mặc tình tắm mát, đài cửu liên thỏa chí dong chơi, hồn phách nương về tịnh cảnh, nghiệp duyên bỏ lại trần ai, sen nở bông hoa thượng phẩm, Phật trao thụ ký kim giai.
Nay có chân ngôn Vãng sinh, kính xin trì tụng:
Nam mô a di đa bà dạ
Đa tha già đa dạ
Đa địa dạ tha
A di rị đô bà tỳ
A di rị đa tất đam bà tỳ
A di rị đa tỳ ca lan đế
A di rị đa tỳ ca lan đa
Già di nị, già già na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
Nam mô Sanh Tịnh Độ Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
Ghi chú: Khoa Chú Thực này được dịch theo khoa Chú thực của Thủy Lục Chư Khoa, nhưng được soạn thêm các phần Triệu thỉnh A, B, C, D, E. Chú Thực là cúng cơm chúc nguyện. Bài Tường phù của Khóa Hư Lục trong khoa Chú Thực không được dịch. Khoa này không ghi người dịch là ai. Sau đây là bài Tường phù (dành cho người thường, còn bài Thiết dĩ (Trộm nghĩ) ở trên dành cho người phú quí ):
Xét rõ, trăm năm kiếp sống, trong một sát na, tứ đại huyễn thân, đâu thể trường cửu. Mỗi ngày trần lao mù mịt, trọn buổi nghiệp thức mơ màng, chẳng biết mình có một tánh sáng ngời, nên rong ruổi theo sáu căn tham muốn. Công danh cái thế cũng chỉ là trường đại mộng, giàu sang phú quý khó thoát hai chữ vô thường. Tranh nhân tranh ngã, rốt cuộc cũng thành không trơn, khoe tài khoe sắc, cũng chỉ là trò không thật. Khi gió thổi lửa bừng nào kể đâu người già trẻ, lúc nước chảy đá mòn còn tính chi kẻ anh hùng. Tóc duyên xanh ngày ấy sao đà bạc trắng, chuyện vui chưa hả thì chuyện buồn đã đến. Một bao máu mủ bao năm khổ luyến ân tình, bảy thước xương khô phóng túng tham lam tài bảo. Hơi thở ra khó hẹn thở vào, gặp sáng nay không chắc sáng mai. Sông ái nổi chìm chừng nào dứt, nhà lửa rối bời ngày nào thôi. Chẳng nguyện xuất ly lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công phu, chắc là, Diêm la vương đuổi bắt thật nhanh, Thôi tướng công đâu buông gia hạn. Ngoảnh lại người thân đâu chẳng thấy, đến hẹn nghiệp báo tự thân mang. Ma vương ngục tốt làm việc áp bức, kiếm thọ đao sơn chẳng thể bẻ gãy. Hoặc nhốt dưới núi Ốc tiêu, hoặc giam trong ngục Thiết vi, bỏ vạc dầu sôi thời muôn chết ngàn sống, gặp máy chém chặt thời một dao đứt lìa. Đói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi, mười hai thời cam thọ đắng cay, năm trăm kiếp không thấy ảnh đầu. Thọ đủ tội nghiệp lại nhập luân hồi, đánh mất thân người thửa trước, chuyển kiếp sanh vào đãy da, mang lông đội sừng, gắn yên cột mõm, lấy thịt nuôi người, dùng mạng đền trả. Sống bị cái khổ dao châm, chết chịu cái đau nấu trụn, oan khiên chất chồng, trở lại ăn nuốt. Lúc nào biết hối, học đạo không duyên, làm sao tự thân thấy được mặt mũi xưa nay, chớ để đời này luống qua một cách vô ích.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét